Đời sống thánh hiến thể hiện niềm hi vọng biến đổi như thế nào?

Dẫn nhập

Văn kiện cuối cùng của Thượng Hội Đồng về tính Hiệp Hành khẳng định rằng:

 “Đời sống thánh hiến được kêu gọi chất vấn Giáo hội và xã hội bằng tiếng nói ngôn sứ của mình. Trong kinh nghiệm hàng thế kỷ của họ, các gia đình dòng tu đã giúp làm chín muồi những thực hành đã từng được trải nghiệm ở cấp công nghị và được phân định chung, học cách hòa hợp các đặc sủng cá nhân và sứ mạng chung. Các hội dòng, các tu đoàn tông đồ, các tu hội đời, cũng như các hiệp hội, các phong trào và cộng đoàn mới có phần đóng góp đặc biệt mang lại sự tăng trưởng cho tính hiệp hành trong Giáo Hội. Ngày nay, nhiều cộng đoàn thánh hiến là “một phòng thí nghiệm” liên văn hóa, tạo nên một lời ngôn sứ cho Giáo Hội và thế giới.”[1]

Trong văn kiện cuối cùng của Thượng Hội Đồng, đoạn văn này đã đưa ra một số chỉ dẫn về cách thức đời sống thánh hiến có thể được xem như một niềm hi vọng để biến đổi. Nó đề cập đến tính ngôn sứ, tính công nghị, việc phân định cộng đoàn, việc điều hòa các đặc sủng cá nhân với sứ vụ chung, tính liên văn hóa.

Chúng tôi mong muốn thử khám phá một số khía cạnh này thông qua một sắc thái gợi nhớ hơn là khái niệm, bằng cách lấy cảm hứng từ một số hình ảnh trong Kinh Thánh và tranh tượng hiện sinh.

Thời gian của mặt trăng

Trong tư cách là nhà truyền giáo, xác tín rằng sứ mạng truyền giáo không chỉ là gieo hạt mà còn là -và nhất là – đón nhận sự sống mà Thiên Chúa làm cho tăng trưởng nơi những con người và giữa các dân tộc, xin cho phép tôi bắt đầu bài suy tư này bằng cách lấy cảm hứng từ những tục ngữ của dân Makua ở nước Mozambique:

Thiên Chúa không phải giống như là mặt trời đơn độc trên trái đất,
nhưng giống như mặt trăng đồng hành cùng với những ngôi sao.
Nếu mặt trăng có một trái tim xấu, chúng ta sẽ không nhìn thấy các ngôi sao.

Mặt trăng, đối với dân Makua, là một tinh tú khiêm tốn chiếu sáng màn đêm và khiến nó trở nên hấp dẫn và bí ẩn. Một tinh tú khiêm tốn vì, theo cách nói của sự khôn ngoan dân gian, trong khi mặt trời chiếu sáng trên bầu trời dập tắt ánh sáng của các tinh tú khác lúc ban ngày, thì mặt trăng thích cùng tồn tại với đốm sáng của các ngôi sao và những hành tinh trên bầu trời đêm.

Theo người Makua, mặt trời di chuyển một mình, là vua và chúa tể duy nhất của ngày. Mặt trăng, ngược lại, di chuyển theo đoàn, cư ngụ ở chân trời của sự hiệp thông và chia sẻ được biểu hiện tốt nhất vào ban đêm, tức là thời gian của sự thân mật.

Mặt trời, khi thức dậy, nó dập tắt các ngôi sao. Mặt trăng, ngược lại, chiếu sáng suốt đêm và ánh sáng của nó phản chiếu lên các ngôi sao, làm tăng cường và tôn vinh sự lộng lẫy của chúng. Mặt trời sáng đến mức chúng ta không thể nhìn vào nó. Chúng ta có thể ngắm trăng, thưởng thức bầu trời đầy sao và đắm mình vào ánh sáng của chúng để tìm cảm hứng.

Hình ảnh bầu trời đầy sao mà sự khôn ngoan của người Makua đề nghị với chúng ta có thể được xem như một tấm gương phản chiếu bối cảnh xã hội và Giáo Hội hiện tại, được làm rõ nét bởi sự đa dạng của tư tưởng, của động thái, của các đối tượng, của các cách hiểu và sống sứ mạng. Trong vũ điệu của vũ trụ này có muôn vàn vì sao lấp lánh, chúng ta, những người nam người nữ sống đời thánh hiến, chúng ta cảm thấy được kêu gọi sửa đổi cách lành mạnh và hoán cải hướng về căn tính sâu thẳm nhất của mình. Văn bản cuối cùng của Thượng Hội Đồng về Hiệp Hành tìm thấy chính trong sự hoán cải sợi chỉ đỏ xuyên suốt văn bản: hoán cải con tim, các mối liên hệ, các tiến trình, các mối liên kết.

Chúng ta nhận ra rằng, trong suốt chiều dài lịch sử của mình, hao hao giống như mặt trời trong các tục ngữ Makua, chúng ta đã sa chước cám dỗ đi đo lường hiệu quả truyền giáo bằng thước đo của “ánh sáng riêng” của mình, bằng sự huy hoàng dập tắt ánh sáng của các ngôi sao khác, bằng sự tự mãn chói lóa. Tính đa sắc của bối cảnh hiện tại, cũng như sự nhận thức rõ nét hơn về sự nhỏ bé của mình – được hỗ trợ bởi việc giảm số lượng và gia tăng độ tuổi trung bình – cổ xúy chúng ta áp dụng một phong cách hiện diện đồng nghị, trong đó cụm từ “mặt trăng” vui vẻ tìm thấy vị trí của mình: những ngôi sao khiêm tốn, được kêu gọi để chiếu sáng, cùng với các vì sao và hành tinh khác, bầu trời đêm nay là thời đại của chúng ta.

Tài liệu làm việc cho Thượng Hội Đồng lần thứ hai nhắc nhớ lại hình ảnh mặt trăng trong các thuật ngữ sau:

“Đức Kitô là ánh sáng của các dân tộc’’ (LG 1) và ánh sáng này chiếu sáng trên khuôn mặt của Giáo Hội, vốn “như là bí tích trong Đức Kitô, nghĩa là dấu chỉ và phương tiện hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa và hợp nhất mọi người” (LG 1). Giống như mặt trăng, Giáo Hội phản chiếu ánh sáng không phải của chính mình: sứ mạng của Giáo Hội không thể tự qui chiếu về mình, nhưng phải trở thành bí tích cho các mối liên kết, những mối quan hệ và sự hiệp thông nhắm đến sự hợp nhất của toàn thể nhân loại. Giáo Hội mang trách nhiệm này vào một thời điểm mang dấu ấn cuộc khủng hoảng liên quan đến việc tham gia, trong đó cảm giác về một vận mệnh chung đang phai nhạt để nhường chỗ cho một tầm nhìn cá tính về hạnh phúc và sự cứu rỗi. Sứ mạng của Giáo Hội là truyền đạt cho thế giới dự án của Thiên Chúa là hợp nhất toàn thể nhân loại với Đức Kitô ngang qua ơn cứu chuộc. Làm như vậy, Giáo Hội không tự công bố chính mình nhưng là công bố “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (x. 2 Cr 4,5). Nếu không, Giáo Hội sẽ mất đi bản chất “bí tích” trong Đức Kitô (x. LG 1), căn tính và lý do hiện hữu của mình. Khi Giáo Hội tiến tới sự viên mãn, Giáo Hội là hiện thân của bí tích Vương quốc Thiên Chúa trên trần gian.[2]

“Tôi biết nguồn nước chảy và tràn lan, tuy là ban đêm…” là đề tài trong Đại hội toàn thể năm 2010 của Liên Hiệp Quốc Tế Các Bề Trên Tổng Quyền. Đúng vậy, thời gian của chúng ta có thể được coi như một đêm: mặt trời đã lặn, đây là thời gian của mặt trăng. Ánh sáng trực tiếp nhường chỗ cho ánh sáng phản chiếu. Đây là thời gian mà các đường nét của thực tế xuất hiện kém rõ ràng hơn. Đây cũng là thời điểm những bóng ma ngủ quên thức dậy trong chúng ta và giữa chúng ta, dưới dạng hàng ngàn câu hỏi, những bất định và sợ hãi: Chúng ta là ai? Chúng ta đi đâu? Chúng ta sẽ ra sao? Chúng ta sẽ kết thúc ở đâu? …Chúng ta có hết thời không?

Đêm tối có thể gây sợ hãi. Nhưng đêm cũng là thời điểm sáng tạo tuyệt vời. Ánh sáng tế nhị của mặt trăng tạo một không gian tự do cho người tìm nghiên cứu có thể không chỉ nhìn bằng mắt, nhưng còn là tưởng tượng, cảm nhận, phỏng đoán. Mặt trăng phục hồi thị lực nội giới. Mặt trăng dẫn chúng ta vào cõi vô hình. Vào thời gian của giấc mơ. Vào thời gian thân mật, thời gian quay trở về với những câu hỏi cơ bản. Thời gian của sự sống và cái chết, của sự thụ thai và hạ sinh, thời gian của hi vọng, của đợi chờ và của sự biến đổi. Chúng ta cảm nhận thách thức này trên da thịt của chúng ta, từng ngày: thách thức đọc ra các dấu chỉ ban đêm này và đọc theo phương thức của Tin Mừng.

Đây là “giờ của chúng ta”. Không phải là giờ mặt trời thiêu đốt và cô đơn, nhưng là giờ của hành tinh khiêm tốn và thân thiện. Giờ của đêm nơi chúng ta được mời gọi điều chỉnh cái nhìn nội tâm của mình hướng tới cái nhìn cốt lõi và giải thoát bản thân khỏi thứ ánh sáng lừa dối không phải Tin Mừng. Đêm mà chúng ta cảm thấy cách mạnh mẽ nhu cầu tái khám phá giá trị đích thực của đời sống thánh hiến. Đêm mà chúng ta với tư cách là cá nhân, là cộng đoàn, là tu hội, là đời sống thánh hiến, chúng ta cảm thấy sâu thẳm trong mình, đôi khi mãnh liệt, sự lôi cuốn “trở về trung tâm”, được hiểu như cốt lõi ngọn lửa làm sống động ơn gọi của chúng ta.

Đây là giờ của chúng ta: chúng ta phải nắm bắt nó như một thời gian làm việc ban đêm, một khúc dạo đầu cho sự thức tỉnh về một cuộc sống mới, tất yếu phải nhỏ bé và không vũ trang. Trời đã tối. Đêm an lành. Đêm Mùa Vọng. Đêm Phục Sinh. Đêm tái sinh.

Một thời để tuyên sấm

Ông Si-mê-on và Bà Anna (Lc 2, 22 – 38)

Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài theo luật Mô-sê, bà Ma-ri-a và ông Giu-se đem con lên Giê-ru-sa-lem, để tiến dâng cho Chúa, như đã chép trong Luật Chúa rằng: “Mọi con trai đầu lòng phải được gọi là của thánh, dành cho Chúa”, và cũng để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền, là một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Hồi ấy ở Giê-ru-sa-lem, có một người tên là Si-mê-ôn. Ông là người công chính và sùng đạo, ông những mong chờ niềm an ủi của Ít-ra-en, và Thánh Thần hằng ngự trên ông. Ông đã được Thánh Thần linh báo cho biết là ông sẽ không thấy cái chết trước khi được thấy Đấng Ki-tô của Đức Chúa. Được Thần Khí thúc đẩy, ông lên Đền Thờ. Vào lúc cha mẹ Hài Nhi Giê-su đem con tới để chu toàn tập tục Luật đã truyền liên quan đến Người, thì ông ẵm lấy Hài Nhi trên tay, và chúc tụng Thiên Chúa rằng:

“Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, là vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài.”

Cha và mẹ Hài Nhi ngạc nhiên vì những lời ông Si-mê-ôn vừa nói về Người. Ông Si-mê-ôn chúc phúc cho hai ông bà, và nói với bà Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi: “Thiên Chúa đã đặt cháu bé này làm duyên cớ cho nhiều người Ít-ra-en ngã xuống hay đứng lên. Cháu còn là dấu hiệu cho người đời chống báng; và như vậy, những ý nghĩ từ thâm tâm nhiều người sẽ lộ ra. Còn chính bà, một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà.”

Lại cũng có một nữ ngôn sứ tên là An-na, con ông Pơ-nu-ên, thuộc chi tộc A-se. Bà đã nhiều tuổi lắm. Từ khi xuất giá, bà đã sống với chồng được bảy năm, rồi ở góa, đến nay đã tám mươi tư tuổi. Bà không rời bỏ Đền Thờ, những ăn chay cầu nguyện, sớm hôm thờ phượng Thiên Chúa. Vào lúc ấy, bà tiến lại gần bên, cảm tạ Thiên Chúa, và nói về Hài Nhi cho hết những ai đang mong chờ ngày Thiên Chúa cứu chuộc Giê-ru-sa-lem.

Ông Si-mê-on và Bà Anna dẫn chúng ta vào trong một chiều kích khác của niềm hy vọng biến đổi, chiều kích tuyên sấm. Vị ngôn sứ, trong Kinh Thánh,

« là sứ giả tối ưu, siêu việt và được dành riêng cho Thiên Chúa. Có nhiều thuật ngữ được dùng để gọi tên vị ngôn sứ (…) Có 315 lần dùng từ nabî’, có thể nghĩa là « được gọi », được thúc đẩy bởi một sự can thiệp của Thiên Chúa trong cuộc đời của họ, như được một người trong số họ nhắc lại, đó là A-mốt (thế kỷ thứ VIII trước CN) “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính ĐỨC CHÚA đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và ĐỨC CHÚA đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta.” (7,14-15). Một định nghĩa khác, là « người của Thiên Chúa », được lặp lại 76 lần, đặc biệt dành cho Êlia và Êlisê, những ngôn sứ đầu tiên theo nghĩa hẹp, mà không có một văn bản nào sót lại mà chỉ có những tài liệu tiểu sử rải rác trong « fioretti » (các giai thoại), được tập hợp trong sách các Vua. Còn có thuật ngữ hôzeh, « người thấy thị kiến », (16 lần), mà chúng ta có thể đặt chung với từ ro’eh « người thấy » (11 lần) : ở đây chúng ta thấy rõ hơn ơn thiên phú được một tầm nhìn siêu việt biểu lộ trong đó một thông điệp của Thiên Chúa. « Nhưng bản văn Kinh Thánh tiếng Hy Lạp cổ, còn được gọi là Bản Bảy Mươi và sách Tân Ước đã sử dụng từ tiếng Hy Lạp là ngôn sứ, hàm chứa động từ femí, « nói », và tiền tố pró, đưa đến ba nghĩa hữu ích để định nghĩa sứ vụ ngôn sứ : « thay thế cho, trước, phía trước ». Nghĩa thứ nhất mang tính quyết định : ngôn sứ nói « nhân danh Thiên Chúa », là phát ngôn viên của Thiên Chúa trước mặt loài người. Chính vì chức năng này mà ngôn sứ là người của hiện tại chứ không phải là người dự đoán tương lai chưa biết trước, ông tham gia vào lịch sử, vào xã hội, trong những bi kịch của thời đại của mình ».[3]

Ông Si-mê-on và bà An-na : hai nhân vật ngôn sứ xuất hiện như những tia sáng trong Tin Mừng theo thánh Lu-ca, trong đoạn dâng Chúa Giê-su trong đền thánh, để rồi biến mất sau đó, chỉ một chút như ánh sao trong Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, dẫn đưa các nhà chiêm tinh đến Bê-lem. Chúng ta hãy thử lắng nghe từ dấu vết sáng ngời đầy ấm áp và dịu dàng của chúng. Cảnh trong Tin Mừng được rõ nét nhờ nhiều động thái. Có động thái mong chờ, nơi ông Si-mê-on, thể hiện sự tỉnh thức và chú tâm đầy tình yêu thương dành cho Chúa Thánh Thần. Thánh Thần chạm đến ông, ngự nơi ông và thúc đẩy ông. Người làm cho thân xác, tinh thần, trái tim của ông nên sống động, các ngoại và nội giác quan mở ra, năng động, sắc bén hơn bởi nỗi khao khát yêu thương. Đức Thánh Cha Phan-xi-cô, trong một buổi giáo lý của ngài về nhân vật Si-mê-on, đã mô tả như sau :

« Chúng ta học được rằng lòng trung thành chờ đợi tinh luyện các giác quan. Ngoài ra, chúng ta cũng biết rằng, đây chính là điều Chúa Thánh Thần làm : Người soi sáng các giác quan. Trong thánh thi cổ « Veni Creator Spiritus » (Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến), mà nay chúng ta vẫn dùng để cầu xin Chúa Thánh Thần, chúng ta nói : « Accende lumen sensibus », xin thắp sáng chúng con, xin nung đốt chúng con, xin hãy ban ánh sáng cho giác quan của chúng con. Chúa Thánh Thần có thể làm điều ấy : làm cho nhạy bén lên các giác quan của tâm hồn, cảm giác quan của cơ thể »[4].

“Chúa Thánh Thần – đây vẫn là lời của Đức Thánh Cha – là diễn viên chính trên sân khấu: chính Người thắp lên trong lòng ông Si-mê-ôn niềm khao khát Thiên Chúa, chính Người làm sống dậy nỗi mong chờ trong tâm hồn ông, chính Người hướng dẫn bước chân ông về phía đền thờ và làm cho đôi mắt ông có khả năng nhận ra Đấng Mê-si-a, ngay cả khi Người xuất hiện như một đứa trẻ nhỏ tội nghiệp. Đây là những gì Chúa Thánh Thần làm: Người làm cho chúng ta có khả năng nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và công trình của Người, không phải trong những điều vĩ đại, cũng không phải trong những dáng vẻ bên ngoài, cũng không phải trong những phô trương sức mạnh, mà là trong sự nhỏ bé và mong manh. Chúng ta hãy nghĩ đến thập giá: ở đó cũng có sự nhỏ bé, mong manh và cả một bi kịch. Nhưng ở đó có sức mạnh của Thiên Chúa. (…)

Mắt chúng ta nhìn thấy những gì ? Ông Si-mê-ôn, được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, nhìn thấy và nhận ra Chúa Ki-tô. Và ông cầu nguyện rằng: “Mắt tôi đã nhìn thấy ơn cứu độ” (c. 30). Đây là phép lạ vĩ đại của đức tin : đức tin mở mắt, biến đổi cách nhìn, thay đổi tầm nhìn. Như chúng ta biết từ nhiều cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu trong các bài Tin Mừng, đức tin nảy sinh từ cái nhìn thương cảm của Thiên Chúa khi Người nhìn chúng ta, tháo gỡ sự chai đá của trái tim chúng ta, khi chữa lành các vết thương của nó, khi ban cho chúng ta đôi mắt mới để nhìn vào chính mình và thế giới. Một cái nhìn mới trên bản thân chúng ta, trên người khác, trên mọi tình huống chúng ta trải qua, ngay cả những tình huống đau đớn nhất. Đây không phải là cái nhìn khờ khạo, không, mà là cái nhìn khôn ngoan. Cái nhìn khờ khạo trốn tránh thực tế hoặc giả vờ không nhìn thấy các vấn đề. Ngược lại, đó là cái nhìn biết “nhìn vào bên trong” và “nhìn xa hơn nữa”; mà không dừng lại ở dáng vẻ bên ngoài, nhưng biết cách thâm nhập vào những rạn nứt của sự mong manh và những thất bại để nhận ra trong đó sự hiện diện của Thiên Chúa. Đôi mắt già nua của ông Si-mê-ôn, mặc dù mệt mỏi vì năm tháng, vẫn nhìn thấy Chúa, chúng nhìn thấy ơn cứu rỗi »[5].

Bà An-na là một góa phụ, cao tuổi: một nhân vật mong manh, không có quyền lực hay uy thế. Bà được gọi là nữ ngôn sứ. Việc phát ngôn là qua sự mong manh của thụ tạo này. Bà An-na nhắc chúng ta nhớ đến những người phụ nữ khác trong Kinh Thánh, như Ê-li-sa-bét và Na-ô-mi : những người phụ nữ lớn tuổi, yếu đuối, được trao quyền và biến đổi bởi một sức mạnh từ Trên Cao.

Bà không rời xa Đền Thờ: bà An-na vẫn ở trong nhà Chúa, bà sống trong đền thờ, bà ở nơi Chúa ngự, bà ở trong Chúa và chính từ góc nhìn này mà bà nhìn vào thực tại, bà đọc nó và diễn giải nó.

Bằng cách phục vụ Chúa ngày đêm trong ăn chay và cầu nguyện: bà An-na ăn chay. Bà kiêng tất cả những gì không phải là Thiên Chúa và tất cả những gì không thuộc về Chúa. Nữ ngôn sứ An-na được nuôi dưỡng bằng chính Thiên Chúa. Bà hành động và sống trong Chúa, và trong không gian yêu thương của mối quan hệ thân mật và đầy sức sống này, bà được hướng dẫn đọc thực tại bằng cái nhìn của Thiên Chúa, khám phá trong những dấu chỉ mong manh của Sự Cứu Chuộc, Sự Sống, Ơn Cứu Độ.

Trong bài giảng Thánh Lễ mừng Chúa Giê-su dâng mình trong Đền Thánh, nhân Ngày Thế giới cầu nguyện cho Đời sống Thánh hiến lần thứ 28, ngày 2 tháng 2 năm 2024, Đức Thánh Cha đã trình bày một lần nữa cho chúng ta hình ảnh ông Si-mê-on và bà An-na.

“Thật tốt cho chúng ta khi nhìn vào hai vị cao tuổi này, kiên nhẫn chờ đợi, tỉnh thức trong tinh thần và kiên trì cầu nguyện. Tâm hồn các ngài vẫn tỉnh thức, giống như ngọn đuốc luôn cháy sáng. Các ngài đã lớn tuổi nhưng lại có tâm hồn trẻ trung ; các ngài không để mình bị thời gian làm tiêu hao vì mắt các ngài vẫn hướng về Thiên Chúa trong niềm mong đợi (x. Tv 145, 15). Nhìn lên Thiên Chúa trong chờ đợi, mãi luôn chờ đợi. Các ngài đã trải qua những khó khăn và thất vọng trên hành trình cuộc sống, nhưng không đầu hàng chủ nghĩa thất bại: không để niềm hy vọng “cáo từ”. Vậy là, khi chiêm ngưỡng Hài Nhi, các ngài nhận ra rằng thời điểm đã mãn, rằng lời ngôn sứ đã được ứng nghiệm: Đấng mà các ngài tìm kiếm và mong ước, Đấng Mê-si-a của các dân tộc đã đến. Bằng cách giữ cho niềm mong đợi Chúa luôn tỉnh thức, các ngài có thể chào đón Người trong cảnh mới mẻ của Người đang xuất hiện.

Thưa anh chị em, thái độ chờ đợi Chúa cũng quan trọng đối với chúng ta, đối với hành trình đức tin của chúng ta. Mỗi ngày Chúa đều đến viếng thăm chúng ta, Ngài ngỏ lời với chúng ta, Ngài tỏ mình ra theo những cách không ngờ tới, và khi cuộc sống và thời gian kết thúc, Ngài sẽ đến. Đây chính là lý do tại sao chính Ngài khuyên chúng ta phải luôn tỉnh thức, canh thức và kiên trì chờ đợi. Điều tồi tệ nhất có thể xảy ra cho chúng ta là rơi vào “giấc ngủ của tâm trí” : sự ru ngủ của trái tim, sự tê liệt của tâm hồn, sự thu dọn hy vọng vào trong những góc tối của thất vọng và cam chịu.

Tôi nghĩ đến anh chị em, những anh chị em tận hiến, và đến món quà là chính bản thân anh chị em. Tôi nghĩ đến mỗi người chúng ta, những người Ki-tô hữu hôm nay : chúng ta vẫn còn có khả năng sống trong chờ đợi nữa không ? Phải chăng đôi khi chúng ta quá bận tâm đến bản thân mình, đến những sự kiện và nhịp sống sôi động thường ngày, đến mức quên mất Thiên Chúa là Đấng luôn đang đến ? Chúng ta có quá bận rộn với những việc lành của mình không, đến có nguy cơ biến đời sống tôn giáo và Ki-tô giáo thành “nhiều thứ phải làm”, và sao nhãng việc tìm kiếm Chúa hằng ngày không ? Chẳng phải đôi khi chúng ta có nguy cơ lập kế hoạch cho cuộc sống cá nhân và cộng đoàn của mình bằng cách tính toán những cơ may được thành công, thay vì vun trồng, trong niềm vui và sự khiêm nhường, hạt giống nhỏ bé được giao phó cho chúng ta, với sự kiên nhẫn của những người gieo mà không đòi hỏi bất cứ điều gì, của những người biết chờ đợi thời điểm và những bất ngờ từ Chúa không ? »[6]

Xin Chúa ban cho chúng ta được khôn ngoan để chờ đợi trong tỉnh thức và hy vọng ! Xin Người ban cho chúng ta lời sấm khiêm nhường về sự nhỏ bé trong đó Thiên Chúa ngự trị ! Xin Người ban cho chúng ta một cái nhìn tương tự cái nhìn của ông Si-mê-on và bà An-na, có khả năng đầy cảm xúc nhận ra năng lượng khiêm nhường và cao quý, mạnh mẽ và dịu dàng, của Tình yêu Thiên Chúa thể hiện qua những dấu hiệu nghèo nàn, mong manh, yếu đuối, như một đứa trẻ trong vòng tay mẹ, như hạt lúa mì rơi xuống đất và chết đi để sinh hoa trái, như tấm bánh bẻ ra cho mọi người được sống.

 Những dấu hiệu mong manh của niềm hy vọng

Algérie. Vào đêm ngày 26-27 tháng 3 năm 1996, Christian de Chergé, Bruno Lemarchand, Célestin Ringeard, Christophe Lebreton, Luc Dochier, Michel Fleury và Paul Favre-Miville: bảy đan sĩ dòng Trappist ở Đan viện Đức Bà Atlas đã bị bắt cóc mà vẫn chưa rõ các thủ phạm được ai thuê mướn. Người ta tìm thấy đầu của các nạn nhân vào cuối tháng 5 gần Médéa, không xa đan viện. Vào ngày 8 tháng 12 năm 2018, các đan sĩ Tibhirine đã được phong chân phước tại Oran, cùng với mười hai vị tử đạo khác của Algéria, bị giết trong khoảng thời gian giữa năm 1994 và năm 1996. Họ đã làm chứng cho lòng trung thành của mình với Thiên Chúa, với một vùng đất và một dân tộc bằng cách kiên trì đến cùng trong tinh thần huynh đệ [7].

“Vào một ngày tháng 7 năm 1994, hai năm trước đoạn kết liễu đẫm máu cuộc đời của bảy tu sĩ ở Tibhirine, Mohammed, nhân viên bảo vệ (người Hồi giáo) của đan viện Đức Mẹ Atlas ở Algeria, khi xin Thầy Christophe những cái móc để nhổ khoai tây trong vườn, đã nói với Thầy về công việc chung của họ: “Thầy biết đấy, như thể là trong chúng ta có chung một dòng máu, nó cùng tưới mát chung cho chúng ta vậy đó.” Thầy Christophe – vị đan sĩ trẻ nhất – bình luận rằng: « Thế thì, đối với anh ấy cũng vậy, máu nói lên sự sống trước hết, sự sống được truyền đạt, được chia sẻ”.[8]

Di chúc thiêng liêng của Đan sĩ Christian bắt đầu bằng những lời này:

“Nếu một ngày nào đó – có thể là hôm nay – tôi trở thành nạn nhân của nạn khủng bố đang như muốn nhấn chìm tất cả những người ngoại quốc hiện sống tại Algéria, tôi mong cộng đoàn tôi, Giáo Hội tôi, gia đình tôi, nhớ rằng cuộc đời tôi đã ĐƯỢC HIẾN DÂNG cho Thiên Chúa và đất nước này”. Và Thầy tiếp tục : “Cái chết của tôi, dĩ nhiên, sẽ như thể cho thấy rằng những ai nhanh chóng gọi tôi là ngây thơ hay lý tưởng là đúng đắn: “Bây giờ, anh ta hãy nói lên đi những gì anh ta nghĩ về điều ấy ! ” Nhưng họ phải biết rằng sự tò mò cháy bỏng nhất của tôi cuối cùng sẽ được lý giải. Nếu đẹp lòng Chúa, đây là điều tôi có thể làm : để tầm mắt của mình đắm chìm vào ánh mắt của Chúa Cha để cùng với Người chiêm ngưỡng những đứa con Hồi giáo của Người như Người nhìn thấy họ, sáng ngời trong vinh quang Chúa Kitô, là những hoa trái cuộc khổ nạn của Người nhờ Ân Huệ Thánh Thần, mà niềm vui sâu kín của Người luôn mãi là thiết lập mối hiệp thông và tái lập sự giống nhau bằng cách làm hoạt động các điểm khác biệt với nhau.”

Mogadishu, Sô-ma-li, ngày 17 tháng 9 năm 2006: Sơ Leonella Sgorbati, một nhà truyền giáo Consolata, bị giết khi rời bệnh viện nhi nơi sơ làm việc. Bảy phát đạn xuyên qua người sơ. Trước khi chết, khi nhận ra kẻ nã súng, sơ thì thầm: “Đừng làm hại anh ấy, anh ấy là một cậu bé tội nghiệp.” Và sơ kết thúc cuộc đời mình khi đang thốt lên những lời tuyệt vời nhất của kinh nghiệm Kitô giáo : “Tôi tha thứ, tôi tha thứ, tôi tha thứ…” Sơ Leonella đã được phong chân phước vào năm 2018. Về mặt thiêng liêng, Sơ rất gắn bó với kinh nghiệm của các đan sĩ ở Tibhirine.

Kamenge, Burundi, ngày 8 tháng 9 năm 2014: Bernadette, Olga và Lucia, thuộc Hội Truyền giáo Xavier đã bị giết một cách dã man trong đêm. Giordana, Tổng giám đốc Hội Truyền giáo Xavier tại Parma[9], cho biết: “Họ là ba nhà truyền giáo lớn tuổi với những vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, vừa trở về Burundi vì họ muốn trở về với dân tộc của mình”. Ngày 1 tháng 10 năm 2013, khi rời Parma để đi Burundi, Lucia tuyên bố: “Tôi lại lên đường đi Burundi, ở tuổi của tôi và với thể lực yếu ớt và giới hạn không còn cho phép tôi chạy ngày đêm như trước nữa. Tuy nhiên, trong thâm tâm, tôi tin có thể nói rằng lòng hăm hở và mong muốn trung thành với tình yêu Đức Giêsu dành cho tôi – được cụ thể hóa trong sứ mạng – vẫn luôn sống động”.[10]

Danh sách vẫn còn dài. Nhưng chúng ta hãy dừng lại ở đây. Các đan sĩ ở Tibhirine đã từng có cuộc sống rất giản dị, gồm cầu nguyện, làm việc và chia sẻ tình huynh đệ với mọi người. Tránh xa các máy chiếu phim, những ồn ào và quyền lực. Những cuộc đời mãnh liệt, khiêm nhường, thanh đạm, hăng say. Leonella đã 66 tuổi và mắc nhiều vấn đề về sức khỏe khi bị giết trên một con đường ở Mogadishu. Từ nhiều năm, cùng với những chị em khác, sơ đã sống ở Somalia dưới bom đạn của một cuộc chiến tranh phi lý, sơ được bảo vệ không phải nhờ một hầm trú bê-tông hay một xe bọc thép, mà nhờ niềm đam mê của sơ đối với Đức Giê-su Ki-tô, nhờ tình huynh đệ với những nhà truyền giáo khác mà sơ chia sẻ cuộc sống, nhờ tình yêu của sơ dành cho mọi người. Bernadette, Olga và Lucia ở độ tuổi 79, 83 và 75 khi cơn thịnh nộ giết chóc đã bứng họ ra khỏi dân tộc mình, nơi mà các chị đã chọn quay trở về dù tuổi cao sức yếu.

Chúng ta có thể tự hỏi: tại sao lòng căm thù, bạo lực và Sự Ác lại được buông thả để chống lại những con người dễ bị tổn thương như thế, mong manh, không có khả năng tự vệ, xa những bộ máy quyền lực, không tìm kiếm sự thể hiện, sự vĩ đại, sự chiến thắng và sự nổi tiếng ? Tóm lại, những con người này làm bận lòng ai ? Không còn nghi ngờ gì nữa, chính Sự Ác đã bị hoảng loạn và sợ hãi, bởi vì các chị là những người hoàn toàn mong manh, nhưng tinh thần lại vô cùng mạnh mẽ bởi được Thiên Chúa ở cùng, được Ngọn Lửa của Người thiêu đốt. Họ giống, quá giống Chiên Thiên Chúa, Đấng không phòng vệ và khiêm nhường, Đấng gánh chịu nỗi đau, bệnh tật và tội lỗi của vũ trụ và trả lại cho nó niềm an ủi, ơn chữa lành, tha thứ, cứu độ. Có một sự mong manh trong đó Thiên Chúa cư ngụ, khiến cho Sự Ác sợ hãi, khó chịu, kinh khiếp. Sự Ác không sợ quyền lực, sức mạnh, thành công, những chiến thắng, danh vọng, sự vĩ đại, sự khắc nghiệt, bởi vì Sự Ác sống và được nuôi dưỡng bằng tất cả những thứ ấy ! Ngược lại, Sự Ác lại bối rối và khuất phục trước sự khiêm nhường, lòng tha thứ, sự từ bỏ đầy yêu thương, sự trần trụi đầy nhiệt huyết, lòng vâng phục Tình Yêu như Đức Kitô đã làm. Cho đến tận cùng. Cho đến Giờ Phút tối cao, khi Tình yêu bộc lộ sức mạnh dịu dàng và gây bối rối của nó, ngăn chặn nơi mình mọi mũi tên hận thù, bạo lực và tái lập lòng thương xót, sự tha thứ, sự dịu dàng. Đúng vậy, Sự Ác sợ cái mong manh của Thiên Chúa đã nộp mình cho Tình Yêu. Để chống lại nó, Sự Ác không có vũ khí và trở nên điên loạn.

Vào tháng 4 năm 2018, trong tuần lễ Phục Sinh, tôi đang ở Afghanistan, tại Kabul, cùng với một trong những chị em của tôi, để thăm Cộng đoàn Liên Dòng Nữ đang điều hành một ngôi trường nhỏ dành cho trẻ em khuyết tật thuộc những nhóm người yếu thế trong xã hội. Thật không may, dự án đã phải kết thúc khi những người Taliban đến Kabul vào tháng 8 năm 2021. Cùng với hai sơ đang hiện diện lúc bấy giờ – có hai quốc tịch khác nhau và thuộc hai Dòng khác nhau- chúng tôi đã đến cử hành lễ Phục Sinh trong nhà nguyện Công Giáo duy nhất ở Afghanistan, đó là nhà nguyện của Đại sứ quán Ý, nơi vị Bề Trên phụ trách Missio Sui Luris tại Afghanistan, một tu sĩ dòng Barnabite, đang cư trú. Để đến đại sứ quán từ vùng ngoại ô nơi chúng tôi ở, chúng tôi bắt taxi và băng qua thành phố. Trong khu vực các đại sứ quán, tất nhiên có nhiều quân đội chiếm đóng. Nhưng các người lính Afghanistan và những người lính ngoại quốc đều biết rõ các sơ, và chúng tôi không gặp phải sự kháng cự nào khi đi qua.

Khi chúng tôi đến Đại sứ quán Ý, chúng tôi gặp một số binh lính thuộc căn cứ NATO gần đó, họ cũng đến tham dự thánh lễ. Căn cứ của NATO không xa đại sứ quán, và binh lính chỉ phải đi bộ vài trăm mét để đến đó. Tôi không thể không xúc động khi nhận ra sự khác biệt rõ ràng giữa tư thế của những người lính và các nữ tu, bắt đầu từ trang phục của họ. Đây là những người lính NATO, cao lớn và vạm vỡ, diễu hành với quân phục nặng nề, theo đúng các quy tắc áp dụng cho họ, với quân phục ngụy trang, áo chống đạn, mũ bảo hiểm, tấm che mặt, đôi ủng nặng, thắt lưng và súng đạn đeo trên vai. Phải mất một lúc họ mới gỡ được những thiết bị này và bước vào nhà nguyện nhẹ nhàng hơn một chút. Và bên cạnh họ là các nữ tu, những phụ nữ xinh đẹp và mong manh, chỉ đơn giản khoác lên mình những tấm vải mềm mại của Afghanistan và một khăn voan che mặt Hồi giáo mong manh, với một cây thánh giá quanh cổ, được giữ cẩn thận và kín đáo dưới lớp áo nhẹ nhàng của họ. Điều này làm tôi nhớ đến hình ảnh của cậu bé Đa-vít –  sau khi cởi bỏ bộ áo giáp mà Sa-un đưa để bảo vệ cậu trong trận chiến – đã mình trần thong dong tiến về phía Go-li-át, chỉ mang theo mấy viên sỏi và một cái ná : trong khi gã khổng lồ mặc áo giáp và đội mũ đồng. Đa-vít không tin vào bản thân và vũ khí, mà tin vào Thiên Chúa của mình (x. 1 Sam 17,1-54). Tôi sẽ không bao giờ quên lời bình luận của một sĩ quan NATO : “Hai người phụ nữ phi thường, khiêm nhường và tận tụy ấy đã làm được rất nhiều cho dân tộc này hơn cả toàn bộ quân đội cộng lại.”

Chúng ta có thể tự hỏi: Điều gì khiến tôi xúc động khi chiêm ngưỡng những “bức i-côn hiện sinh ấy” do những người nam và nữ tận hiến vẽ nên ?

***

Chúng ta hãy trao phó cho Mẹ Thiên Chúa, cũng là Mẹ chúng ta, hành trình của những người thánh hiến trong Năm Thánh này : ước gì đây thực sự là một cuộc hành hương hy vọng sẽ có sức biến đổi, hành trình được nâng đỡ và nuôi dưỡng bằng lời cầu nguyện và chứng tá của rất nhiều người nam nữ của Thiên Chúa đã sống và tiếp tục thể hiện sức mạnh ngọt ngào và mạnh mẽ của niềm hy vọng không bao giờ làm chúng ta thất vọng ! Được che chở bởi áo choàng của Mẹ, được hướng dẫn bởi sự hiện diện dịu dàng và mạnh mẽ của Mẹ, chúng ta có thể thực sự “trải nghiệm sự gần gũi của người mẹ trìu mến nhất, người không bao giờ bỏ rơi con cái mình, vốn là “dấu chỉ của niềm hy vọng và an ủi chắc chắn” đối với Dân Thánh của Thiên Chúa.”[11]

Soeur Simona Brambilla, Dòng Truyền giáo Consolata (MC)
và Đức Hồng Y Ángel Fernádez Artime, Dòng Don Bosco (SDB)

Nguồn: https://dongducba.net/doi-song-thanh-hien-the-hien-niem-hi-vong-bien-doi-nhu-the-nao/

[1] ĐẠI HỘI THƯỜNG NIÊN LẦN THỨ XVI CỦA HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC – “Một Giáo Hội hiệp hành: tham gia, hiệp thông, sứ vụ”, phiên họp thứ hai, văn kiện cuối cùng, Roma ngày 26 tháng 10 năm 2024, số 65 (sau đây viết tắt là DF).

[2] ĐẠI HỘI THƯỜNG NIÊN CỦA THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC LẦN THỨ XVI, Làm thế nào để trở thành một Giáo hội truyền giáo theo tinh thần Công đồng, Tài liệu làm việc cho Khóa họp thứ hai, tháng 10 năm 2024, số 4.

[3] G. RAVASI, NABÎ’: profeta, https://www.famigliacristiana.it/blogpost/nabi-profeta.aspx, 26 agosto 2021.

[4]  FRANCESCO, Udienza generale, Aula Paolo VI, 30 marzo 2022.

[5] FRANCESCO, Omelia alla Messa della festa della Presentazione del Signore nella XXVI Giornata Mondiale della Vita
Consacrata, Basilica di San Pietro, 2 febbraio 2022.

[6] FRANCESCO, Omelia alla Messa della festa della Presentazione del Signore nella XXVIII Giornata Mondiale della Vita Consacrata, Basilica di San Pietro, 2 febbraio 2024.

[7] Cf. PALERMO, A. L’eredità spirituale dei Monaci di Tibhirine rapiti 25 anni fa, in Vatican News, 26 marzo 2021, https://
www.vaticannews.va/it/chiesa/news/2021-03/l-eredita-spirituale-dei-monaci-di-tibhirine-rapiti-25-anni-fa.html

[8] Cf. PALERMO, A. L’eredità spirituale dei Monaci di Tibhirine rapiti 25 anni fa, in Vatican News, 26 marzo 2021, https://

www.vaticannews.va/it/chiesa/news/2021-03/l-eredita-spirituale-dei-monaci-di-tibhirine-rapiti-25-anni-fa.html

[9] https://parma.repubblica.it/cronaca/2014/09/07/news/due_missionarie_saveriane_uccise_in_burundi-95229424/

[10] https://www.focusonafrica.info/burundi-sette-anni-fa-leccidio-di-tre-suore-italiane-non-dimentichiamo/

[11] FRANCESCO, Spes non confundit – Bolla di indizione del Giubileo Ordinario dell’Anno 2025, Roma 9 maggio 2024, n. 24.

Bài viết cùng chuyên mục

Back to top button