Chuyện Bà Dì của tôi
Tôi gọi như thế vì Bà là Dì ruột của Ba tôi.
Bà là Nữ tu Maria Đặng Thị Nhất, thuộc Hội dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết. Bà sinh năm 1908 tại giáo xứ Bình Thôn, Quảng Bình. Qua đời ngày 26/08/1998, sau hơn 70 năm sống đời tận hiến cho Chúa.
Chuyện Bà Dì tôi đi tu, theo lời Bà Nội của tôi kể lại, quả là một câu chuyện tình hi hữu:
Số là vào năm Bà Dì tôi vừa tròn tuổi đôi mươi. Bà – một cô gái quê, nết na, đạo hạnh, là con của Ông Trùm xứ. Bà làm Hội Trưởng Họ Ven (tên gọi xưa của Đoàn Thanh Nữ), được nhiều anh trai làng ngắm nghé, muốn làm quen. Đặc biệt có anh thanh niên trong xứ tên là Hiệp, làm trưởng Họ Đồng (tên gọi xưa của Đoàn Thanh Nam Công Giáo). Anh là con một gia đình khá giả, đạo đức. Bà Dì tôi được anh ta quan tâm, chăm sóc, đối xử bằng một thứ tình cảm hơn cả tình bạn bè đồng trang lứa. Biết thế, các bạn trong giáo xứ nhiều khi vui miệng chọc ghẹo hay cố tình vun đắp vào bằng cách cặp đôi, cặp lứa: « Hiệp – Nhất _ Hiệp – Nhất », rồi cười đùa vui vẻ…! Anh chàng Hiệp thì hớn hở ra mặt, miệng cười nói huyên thuyên, càng tỏ ra hăng say trong công tác của xứ đạo; cố làm mọi cách để được lọt mắt xanh của người đẹp. Bà Dì tôi, những lúc như thế, luôn giữ im lặng, nết na, dè dặt, hoặc tìm cách lảng tránh, hoặc chú tâm vào công việc đang làm.
Thời gian dần trôi, không biết hai anh chị Hội trưởng có như các đôi trai gái ngày nay thường hò hẹn, gặp gỡ hay thề non hẹn biển gì không? Nhưng mà chuyện đời thì việc gì phải đến cũng sẽ đến: Một ngày đẹp trời, gia đình cha mẹ anh chàng Hiệp đưa cau trầu, sính lễ đến nhà Ông Bà Cố xin hỏi cưới Bà Dì tôi. Hai gia đình vốn là chỗ thân quen, lại đều có tiếng tăm danh giá trong làng, trong giáo xứ, và nhận thấy hai con rất xứng đôi vừa lứa nên cha mẹ hai bên đã đồng ý xúc tiến việc cưới hỏi theo tục lệ đạo đời vào thời đó.
Riêng Bà Dì tôi thì như sét đánh ngang tai, khi nghe Ông Bà Cố cho biết là đã quyết định việc hôn nhân của mình. Bà hết sức buồn bã, âm thầm khóc suốt mấy ngày liền. Nỗi niềm riêng tư biết thổ lộ cùng ai, vì Bà là chị cả trong nhà. Cuối cùng, Bà đành trút hết tâm sự cho người em gái tức là Bà Nội của tôi, rằng là Bà đã nuôi lý tưởng dâng mình cho Chúa trong một nhà Dòng, theo gương người anh họ của Bà đã đi tu Dòng Cứu Thế (sau này là Linh mục G.B Cái Hồng Phúc), chứ không quan tâm đến việc lập gia đình.
Nhưng hai chị em không biết làm thế nào để thưa chuyện với Ông Cố vì biết tính của Ông rất cứng rắn và nghiêm khắc; Ông đã quyết định việc gì rồi thì không ai có thể làm Ông lay chuyển hoặc thay đổi ý định được.
Cuối cùng, Bà Nội tôi đành nói cho Bà Cố biết vì nghĩ rằng Bà vốn thương con gái nên có thể nói giúp cho. Ai ngờ khi hay biết ý nguyện của con, Ông Cố giận dữ, nổi trận lôi đình, gọi Bà Dì tôi đến mắng cho một trận tối tăm mặt mũi. Những ngày sau đó, Ông Cố còn nhiều lần, khi thì nhẹ nhàng khuyên lơn, khi thì răn đe, đòn roi… thậm chí còn bắt Bà Dì tôi ra đồng chăn trâu thay cho đầy tớ trong nhà…!
Và cứ thế, mọi việc vẫn được tiến hành đều đặn: lễ dạm ngõ, bỏ trầu cau, lễ hỏi… Từ những tuần này, mọi người bỗng thấy Bà Dì tôi và anh chàng Hiệp thường xuyên đi lại gặp gỡ nhau, bàn bạc mọi việc chuẩn bị cho ngày lễ trọng sắp đến, nên cần sự góp công sức của thanh niên nam nữ trong xứ. Ông Bà Cố thấy vậy cũng tỏ ra vui mừng vì nghĩ rằng con gái mình đã biết nghe lời cha mẹ. Hy vọng đám cưới sắp tới sẽ làm nở mày nở mặt cả hai gia đình !
Rồi ngày lễ trọng mừng Bổn mạng của Giáo xứ cũng đến, hôm đó cũng là ngày cha xứ rao hôn phối lần thứ ba cho đôi của Bà Dì tôi. Tối đến, giáo xứ tổ chức rước kiệu trọng thể, có mời các xứ bạn chung quanh đến tham dự. Mọi người vui mừng vì từ trước đến nay chưa bao giờ sựu kiện này diễn ra trong xứ đạo. Tối hôm đó, mọi người vui vẻ ăn mừng lễ thành công tốt đẹp, đến quá nửa đêm mới trở về nhà.
Sáng hôm sau, nhà Ông Bà Cố thức dậy sớm chuẩn bị ra đồng, không thấy Bà Dì tôi đâu nhưng ai cũng tưởng sau ngày lễ lạc mệt nhọc nên Bà còn ngủ nướng. Lúc sau, Bà Cố vào phòng Bà Dì tìm mà không thấy đâu; cả đồ đạc, quần áo, rương hòm cũng biến đâu mất! Cả nhà mới cho người đến nhà bà con, bè bạn, hàng xóm tìm kiếm nhưng cũng không thấy tăm dạng hay tin tức gì.
Mãi đến chập tối hôm đó, mới thấy bóng anh chàng Hiệp, chồng sắp cưới của Bà Dì tôi, tìm đến nhà Ông Bà Cố để báo tin. Mọi người nóng lòng nghe anh kể lại đầu đuôi sự việc: Sự thể là sau khi thấy không thể nào làm lay chuyển ý định của Ông Cố, cứ cương quyết bắt ép con gái lấy chồng, Bà Dì tôi cùng đi với em gái là Bà Nội tôi đến gặp anh chàng Hiệp, lợi dụng dịp chuẩn bị tổ chức lễ Bổn mạng xứ và cuộc rước kiệu vừa rồi, nói cho anh biết về lý tưởng cao đẹp của Bà Dì tôi đã ôm ấp từ thuở nhỏ, mong anh thông cảm, hy sinh cuộc tình tốt đẹp cho Chúa, cho người mình yêu… Sau nhiều ngày suy nghĩ, cầu nguyện, anh đã bằng lòng để cho Bà Dì tôi được như lòng nguyện ước. Thế là, đôi bạn từ những ngày sau đó, thay vì gặp gỡ nhau để tỏ lộ tình yêu đôi lứa thì lại bàn bạc về kế hoạch làm thế nào để cho Bà Dì tôi vào được nhà Dòng cách êm xuôi, tốt đẹp.
Ngay đêm lễ Bổn mạng xứ xong, trong khi mọi người đang liên hoan tiệc tùng vui vẻ thì anh Hiệp đã âm thầm chèo đò đưa Bà Dì tôi từ làng Bình Thôn, Quảng Bình, xuôi theo dòng sông Kiến Giang (Rào Tùng) về Đồng Hới, tìm vào gõ cửa Tu viện Mến Thánh Giá Tam Toà (Sáo Bùn).
Sau khi mọi việc êm đẹp, Anh trở về tìm gặp Ông Bà Cố để xin tha tội cho Bà Dì tôi và anh ta đã không làm theo ý Cha Mẹ.
Nghe đến đây, Ông Cố bỗng ôm chầm lấy chàng rể hụt của mình mà không cầm được nước mắt. Còn Bà Cố thì nghẹn ngào không nói được nên lời!
MARIA THANH XUÂN
*** Kính nhớ Linh hồn các Bà:
+ Bà Dì: Nữ tu Maria Đặng Thị Nhất,
+ Bà Nội: Maria Đặng Thị Ngôn
+ Bà Dì Út: Maria Đặng Thị Chữ (Mẹ của Lm. Giuse Cái Hồng Phượng – Gp. Huế)



